Sáng ngày 8/12, tại thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng, Phó Cục trưởng Đặng Duy Hiển đã tham dự và phát biểu tại Hội thảo “Ứng dụng công nghệ viễn thám trong dự báo hạn hán, thiếu nước cho khu vực Tây Nguyên và chuyển đổi số trong vận hành công trình thủy lợi”. Chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Đối với ngành nông nghiệp và thủy lợi, đây là giải pháp then chốt để thay đổi mô hình hoạt động, nâng cao năng suất - hiệu quả, tiến tới quản trị hiện đại dựa trên dữ liệu.
ĐẨY MẠNH CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG THỦY LỢI: TỪ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH SANG QUẢN TRỊ DỰA TRÊN DỮ LIỆU
Tăng cường công nghệ ứng phó hạn hán, thiếu nước
Tình trạng hạn hán, thiếu nước diễn ra thường xuyên ở nhiều địa phương, trong khi nguồn lực phòng chống còn hạn chế. Theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW, ngành cần đẩy mạnh các công nghệ phân tích và giám sát mới như WAPOR, Google Earth Engine, viễn thám; đồng thời chú trọng cải tạo, nâng cấp thiết bị, hệ thống bơm và hạ tầng thủy nông cơ sở.
Ứng dụng khoa học công nghệ còn chậm, thiếu đồng bộ
Trong nhiều năm qua, tốc độ ứng dụng KHCN trong quản lý khai thác công trình thủy lợi còn thấp. Nhiều dự án sau đầu tư không được duy trì, dẫn tới hư hỏng hoặc bỏ không. Dữ liệu phục vụ vận hành còn thiếu và không đồng bộ, hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định chưa đáp ứng nhu cầu quản trị hiện đại.
Sự tham gia của doanh nghiệp công nghệ: Cơ hội và thách thức
Những năm gần đây xuất hiện nhiều doanh nghiệp cung cấp giải pháp tự động hóa, IoT và dữ liệu cho ngành thủy lợi. Tuy nhiên, chi phí còn cao, khó triển khai đại trà; điều kiện khí hậu và môi trường nước tại Việt Nam cũng làm giảm độ bền của thiết bị. Đây là thách thức lớn trong quá trình số hóa lĩnh vực này.
Công tác quản lý còn thủ công, cần thúc đẩy số hóa toàn diện
Nhiều đơn vị quản lý khai thác vẫn sử dụng giấy trong hồ sơ, báo cáo; việc ký số còn hạn chế. Quy trình tổng hợp, phân tích dữ liệu phục vụ điều hành chưa hiện đại; trong khi mô hình vận hành - bảo trì - kiểm tra - bảo vệ còn dàn trải, chưa tối ưu nguồn lực.
Một số điểm nghẽn lớn cần tháo gỡ
Cơ chế vận hành - bảo trì cần chuyển từ thủ công sang mô hình tối ưu, giảm công việc tốn nhân lực như vớt cỏ, bèo.
Chế độ đo thủy văn hiện nay (1-7-13-19 giờ) và đơn giá đo chưa phù hợp với tự động hóa. Nếu áp dụng đo tự động 24 lần/ngày, chi phí tương đương đo thủ công 4 lần/ngày; nhưng đo dày hơn (ví dụ 10 phút/lần) sẽ phát sinh chi phí lớn, cần có cơ chế giá mới.
Quy trình chọn nhà cung cấp dữ liệu KTTTV còn vướng ở khâu lập dự toán do nhiều yếu tố biến động.
Chi phí kiểm định thiết bị (khoảng 2,5 triệu/thiết bị) còn cao, làm tăng giá dịch vụ.
Theo NQ.57, cần ưu tiên nội địa hóa thiết bị, khuyến khích các doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển sản phẩm trong nước.
Vai trò của Cục Chuyển đổi số
Cục Chuyển đổi số đang xây dựng Đề án IoT cho lĩnh vực nông nghiệp - môi trường, đồng thời cung cấp nền tảng thu nhận dữ liệu và hạ tầng số nhằm giảm chi phí cho các đơn vị thủy lợi (chỉ phải đầu tư cảm biến và truyền tin). Cục cũng đang vận hành 09 phần mềm dùng chung phục vụ các lĩnh vực Bộ quản lý, tạo nền tảng quan trọng cho liên thông số trong toàn ngành.